QUẢN LÝ CÔN TRÙNG, NHỆN VÀ ỐC GÂY HẠI LÚA
Sâu cuốn lá (Cnaphalocrosis medinalis)
- Khả năng gây hại
Trong 1 vụ lúa, sâu thường phát sinh 2 lứa ở thời kỳ đẻ nhánh và lúa đứng cái làm đòng, trỗ. Lứa sâu thứ 2 thường có mật độ cao, hại trên lá đòng làm ảnh hưởng lớn đến năng suất cây lúa và đặc biệt trong thời tiết khí hậu nắng mưa xen kẽ.
- Biện pháp quản lý
– Thường xuyên thăm đồng để phát hiện và phòng trừ kịp thời khi sâu còn ở tuổi nhỏ.
– Ngưỡng xử lý là 30 con/m2 (lúa đẻ nhánh) và 20 con/m2 (đòng – trỗ).
– Phun: Karate 2.5EC, Virtako 40WG hoặc Voliam Targo 063SC.
Sâu đục thân (Scirpophaga incertulas)
- Khả năng gây hại
Trong 1 vụ, sâu thường phát sinh 2 lứa. Sâu non lứa 1 gây dảnh héo ở giai đoạn lúa đẻ nhánh, tuy tác hại không cao nhưng đây là nguồn sâu cho lứa 2. Sâu lứa 2 thường phát sinh trùng với thời gian lúa đòng – trỗ đây là giai đoạn bị gây thiệt hại nghiêm trọng đến năng suất lúa. Cần lưu ý ngăn chặn kịp thời ngay từ lứa 1 để tránh bộc phát.
- Biện pháp quản lý
– Theo dõi chặt chẽ diễn biến của sâu để xác định chính xác thời gian bướm ra rộ, hay có ổ trứng trên đồng. Xử lý ngay khi thấy có từ 0,3 ổ/m2.
– Các loại thuốc đặc trị sâu đục thân là Virtako 40WG, Voliam Targo 063SC. Đối với những diện tích có mật độ cao từ (0,5 – 1 ổ trứng/m2) cần phải phun kép 2 lần cách nhau khoảng 5 ngày mới cho hiệu quả cao.
Nhện gié (Steneotarsonemus spinki)
- Khả năng gây hại
Nhện sư gia tăng quần thể lớn và nhanh do sinh sản mạnh, vòng đời ngắn. Nhện gié có khả năng gây thất thoát đến sấp xỉ 60% năng suất. Chúng gây hại trên tất cả các bộ phận của cây lúa như bẹ lá, gân lá, bông lúa gây trỗ nghẹn, trên vỏ trấu hạt lúa và gié lúa gây lép đen, đôi khi nhện cũng đục và chui vào khoang mô của bẹ để gây hại, tập trung chủ yếu từ giai đoạn mạ – đẻ nhánh – trổ.
Vết hại ban đầu là các chấm nhỏ có thể hình chữ nhật, màu trắng vàng đến vàng nhạt về sau thành nâu đậm hoặc thâm đen. Các vết hại tập trung thành từng đám màu nâu nhạt, nâu đậm đến thâm đen trông giống như vết “cạo gió“.
- Biện pháp quản lý
– Cày vùi hoặc đốt hết tàn dư cây lúa vụ trước và tránh lúa chét mọc sau thu hoạch.
– Làm sạch cỏ bờ để nhện không có nơi trú ngụ.
– Cho đất nghỉ từ 10-15 ngày.
– Đất ruộng phải được làm kỹ, đánh bùn, san phẳng trước khi gieo, cấy.
– Mật độ sạ 80-100 kg/ha và với lúa cấy: 45-50kg/ha.
– Thăm đồng thường xuyên, theo dõi sư xuất hiện gây hại của nhện gié hại lúa, phun thuốc có hỗn hợp các hoạt chất Abamectin 18g/Lít + Chlorantraniliprole , (Lamda-Cyhalothrin + Thiamethoxam)… ở các thời điểm khi đạt chồi tối đa, đòng trỗ và sau trỗ đều.
Bọ xít hôi (Leptocorisa oratorius )
- Khả năng gây hại
Bọ xít xuất hiện và phá hại vào giai đoạn lúa trỗ đến ngậm sữa. Chúng chích hút chỗ tiếp giáp của 2 vỏ trấu để hút sữa làm hạt lép, lửng. Bọ trưởng thành hoạt động mạnh vào xế chiều và sáng sớm. Mỗi con cái có thể đẻ hàng trăm trứng. Thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều thích phát triển. Trà lúa đầu tiên thường bị bọ xít gây hại nặng hơn, đặc biệt những ruộng trỗ muộn.
- Biện pháp quản lý
– Diệt lúa chét, cỏ dại trên ruộng.
– Gieo sạ/cấy lúa đồng loạt trên 1 cánh đồng.
– Dùng ánh sáng đèn hoặc lửa để thu hút bọ xít bay vào chết.
– Dùng lưới kéo trên mặt ruộng để bắt bọ xít.
– Dùng xác bọ xít giã ra pha với nước xịt trên ruộng để xua đuổi.
– Phun thuốc có hoạt chất Lambda-Cyhalothrin hay hỗn hợp Thiamethoxam + Lamda-Cyhalothrin khi mật số cao vào lúc sáng sớm hoặc xế chiều.
Sâu phao (Nymphula depunctalis)
- Khả năng gây hại
Sâu phao cắn lá cây lúa non thành từng đoạn, rồi cuộn lại sống trong ống lá rơi xuống mặt nước được gọi là sâu “phao”. Sâu thường ăn vào ban đêm, hay khi trời râm. Sâu làm nhộng ở các khe nứt nẽ, vùng đất xung quanh gốc lúa. Sâu thường phá thời kỳ mạ, lúa đẻ nhánh, sâu thường phá rất nhanh có thể cắn trụi ruộng này sang ruộng khác, những năm mưa nhiều ngập úng sâu thường phá mạnh. Cây lúa bị hại có thể hồi phục, tuy nhiên thời gian sinh trưởng kéo dài từ 7- 10 ngày.
- Biện pháp quản lý
– Cho nước vào ngập ruộng dùng rỗ vớt hết các phao sâu rồi đốt hay chôn vùi.
– Giữ ruộng không bị ngập nước hoặc rút cạn nước nhiều ngày để diệt được sâu phao.
– Thả vịt vào đề ăn sâu.
– Dùng các loại thuốc có hoạt chất như (Chlorantraniliprole + Thiamethoxam) hay (Chlorantraniliprole + Abamectin)…
Sâu phao đục bẹ (chưa định danh)
- Khả năng gây hại
Ngoài lúa, sâu phao đục bẹ sống trên lúa chét, cỏ lồng vưc, cỏ đuôi phụng, cỏ cú, lúa cỏ… chúng ăn mất phần bìa phiến lá lúa rồi dùng tơ kết hai mảnh lá ghép lại tạo thành phao cư trú. Sâu non thò đầu ra khỏi phao, đục thủng bẹ xuyên qua thân cây lúa tạo nhiều lổ thủng, gây thối, úng nước, ruộng lúa bị chết thành từng vạt lớn. Sâu gây hại nặng ở điều kiện ngập nước, từ 10 ngày đến tượng khối sơ khởi. Sâu này có tập quán sinh hoạt vừa giống với sâu phao vừa giống sâu đục thân lúa nhưng không giống hoàn toàn. Cây lúa bị hại sẽ kém phát triển, đọt bị vàng, không nảy chồi, dễ chết, mất năng suất nghiêm trọng.
- Biện pháp quản lý
– Thăm đồng thường xuyên khi thấy buớm rộ, sau một tuần sẽ có sâu non nở ra.
– Không nên để mưc nước quá cao, vì sâu phao dễ lây lan theo nước.
– Không sạ quá dày hoặc bón thừa phân đạm.
– Áp dụng thuốc hóa học khi thấy triệu chứng trên bẹ lúa, cần kết hợp rút nước cạn, phun thuốc xong vài ngày mới cho nước từ từ vào ruộng. Dùng các loại thuốc có hoạt chất như (Chlorantraniliprole + Thiamethoxam) hay (Chlorantraniliprole + Abamectin)…
Rầy nâu (Nilavarvata lugens)
- Khả năng gây hại
Rầy nâu chích vào cây lúa để hút nhưa, chúng để lại trên nơi đó 1 vệt nâu cứng làm cản trở sư luân chuyển nước và chất dinh dưỡng nên thân, lá bị cháy khô, khi mật độ cao gây ra hiện tượng cháy rầy. Chúng có khả năng sống quần tụ cao. Cả rầy non và trưởng thành đều không thích ánh sáng trưc xạ nên chúng sống gần gốc lúa, chích hút ngay thân lúa, khi bị động có thể nhảy rơi xuống nước. Rầy có cánh có xu tính với ánh sáng (nên thường vào đèn vào ban đêm). Ngoài ra rầy nâu còn là môi giới truyền bệnh virus trên lúa như bệnh lúa cỏ, lùn xoắn lá. Phân của rầy nâu chứa nhiều đường là môi trường cho các loại nấm phát triển gây nên bệnh bồ hóng ở gốc lúa làm cản trở quang hợp.
- Biện pháp quản lý
– Dùng giống kháng hoặc chống chịu.
– Có thể dùng giống ngắn ngày thay cho giống dài ngày.
– Không bón nhiều phân đạm, không sạ/cấy quá dày.
– Gieo sạ tập trung, đúng thời vụ.
– Khi lúa giáp tháng, có thể thả cá rô phi, cá mè vào ruộng.
– Sử dụng thuốc có hoạt chất Thiamethoxam, Pymetrozine , Lambda-Cyhalothrin .
– Hạn chế dùng các loại thuốc trừ sâu, rầy có tác động đến quần thể thiên địch.
Sâu cắn gié (Leucania separata)
- Khả năng gây hại
Sâu thường phát sinh nhiều trên đồng trũng, thấp, ẩm độ cao, nhiều cỏ, thời tiết ẩm và mát. Sâu non bò lên ngọn để ăn gie lúa làm lúa trỗ rơi rụng nhiều. Sâu non càng lớn ăn càng mạnh. Sâu non đêm chui lên cắn phá lúa, ngày trời nắng chui xuóng gốc để ẩn náu. Những năm mưa bão nhiều sâu phát sinh hại nặng.
- Biện pháp quản lý
– Bảo tồn thiên địch của sâu như ong ký sinh, nhện, kiến, vi khuẩn và nấm.
– Làm đất kỹ, dọn sạch cỏ trong ruộng và bờ.
– Không để ruộng khô nước sớm khi lúa trỗ.
– Khi phát hiện có sâu gây hại dùng thuốc có hoạt chất như Lamda-cyhalothrin (Chlorantraniliprole + Thiamethoxam) hay (Chlorantraniliprole + Abamectin)…
– Nên phun thuốc khi sâu còn tuổi nhỏ mới hiệu quả cao.
Bọ trĩ (Stenchaetothrips biformis)
- Khả năng gây hại
Bọ trĩ trưởng thành và non đều hút nhưa làm cho lá có màu vàng đỏ, lá non hầu như bị quăn lại, không hồi phục được. Bọ trĩ gây hại cho lúa ngay từ khi gieo đẻ nhánh sau đó giảm dần tới lúc lúa trỗ. Bọ trĩ thường hại nặng những ruộng thiếu nước. Con trưởng thành sống đến 3 tuần, hoạt động cả ngày và đêm. Chúng ẩn lấp trong lá nõn hoặc các chót lá quăn do không ưa ánh sáng trưc xạ. Khi trời râm mát chúng bò ra ngoài. Trong quần thể có 95% là con cái. Bọ trĩ sinh sản đơn tính là chủ yếu.
Biện pháp quản lý
– Giữ mưc nước ổn định, bón phân cân đối. Sau khi bọ trĩ phá hoại, bón thêm urea
giúp cây hồi phục nhanh.
– Đối với những ruộng lúa non, cạn nước, khi mật số bọ trĩ cao cần điều tra số lượng
thiên địch trước khi quyết định xử lý thuốc.
– Đề phòng ngừa bọ trĩ nên xử lý hạt giống trước khi gieo sạ bằng thuốc có hoạt chất Thiamethoxam , Defenoconazole , Fludioxonil
– Khi bọ trĩ phá hại có thể sử dụng Thiamethoxam để phun.
ỐC BƯƠU VÀNG (Pomacea canaliculata)
- Khả năng gây hại
– OBV thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, khả năng gây hại lớn cho ruộng lúa trong vòng 1 tháng tuổi.
– Cây lúa bị OBV cắn phá sẽ không có khả năng phục hồi, nhiều khu ruộng do không chủ động quản lý nước nên khi OBV gây hại phải gieo sạ lại.
– Tập quán canh tác lúa nước và có mùa mưa trong năm là điều kiện tốt cho OBV sinh sản, phát tán lây lan gây hại mạnh cho ruộng lúa.
- Biện pháp quản lý
– Thường xuyên thu gom ốc và ổ trứng trên đồng, ao hồ, kênh rạch công cộng…trước
và sau khi sạ để hạn chế mật số OBV.
– Trước khi sạ/cấy, nên đánh rãnh trên ruộng và những chỗ có nhiều nước ốc sẽ tập trung, thuận tiện cho việc thu gom.
– Dùng lưới chắn ốc ở đường nước chảy hay khi bơm.
– Thả vịt vào ăn ốc nhỏ ở trước sạ và sau khi lúa lớn.
– Nếu mật số ốc cao cần có mạ dư phòng khi sạ hay chuyển sang phương thức cấy. Cắm cọc nhử ốc đến đẻ rồi gom để diệt.
– Chủ động quản lý nước làm giảm khả năng di chuyển của ốc.
– Hạn chế diệt OBV bằng hóa chất vì rất dễ gây tác động xấu cho môi trường.
Wow, superb blog layout! How long have you been running a blog for?
you make running a blog glance easy. The full look of your web site is wonderful, let alone the
content! You can see similar here e-commerce